Hiện có khoảng 100 ngân hàng thương mại, định chế tài chính, văn
phòng đại diện ngân hàng nước ngoài nhưng không nhiều trong số đó đầu tư
core banking.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào cũng tận dụng hết tài nguyên của “core”. Thậm chí, có ngân hàng mua “core” chỉ để đánh bóng…
Nhận xét về vai trò của core banking trong hoạt động ngân hàng thương
mại, ông Nguyễn Quang A, thành viên Hội đồng Quản trị VP Bank nói:
“Tiền, tài sản thế chấp trong ngân hàng thực ra chỉ ở trên giấy, sổ sách
kế toán, dữ liệu máy tính… chỉ hiển thị bằng thông tin và quản lý cái
đó thông qua thông tin chứ không thể quản lý tài sản vật lý. Lõi banking
chính là hạt nhân toàn bộ hệ thông tin của một hệ thống ngân hàng”.
Công nghệ nào, sản phẩm ấy
Đồng tình với ông Quang A, bà Thu Ba, Trưởng phòng công nghệ thông
tin SHB, cho rằng: core banking chính là một hệ thống các phân hệ nghiệp
vụ cơ bản của ngân hàng như tiền gửi, tiền vay, khách hàng. Thông qua
đó, ngân hàng phát triển thêm nhiều dịch vụ, sản phẩm và quản lý nội bộ
chặt chẽ, hiệu quả hơn.
Trước đây, khi các ngân hàng chưa có “core” hiện đại hoặc dùng “core”
lỗi thời, việc quản lý khách hàng rất rải rác và vô cùng bất tiện cho
khách hàng. Tiền gửi ở đâu, phải đến đó, không thể rút ở điểm giao dịch
khác, mặc dù các điểm này đều trong cùng hệ thống một ngân hàng.
Thậm chí, khách hàng muốn giao dịch ở bao nhiêu điểm thì phải mở bấy
nhiêu tài khoản. Với sự ra đời của core banking hiện đại, khách hàng chỉ
cần có một mã duy nhất ở ngân hàng là có thể giao dịch với rất nhiều
sản phẩm và ở bất cứ điểm giao dịch trong cùng hoặc không trong cùng một
hệ thống.
Ngoài ra, sự ưu việt của phần mềm mới còn ở chỗ chúng chứa tham số
rất lớn để mỗi khi ngân hàng muốn phát triển một dịch vụ, sản phẩm sẽ dễ
dàng hơn, chỉ cần định nghĩa tham số là có thể tạo sản phẩm mới mà
không phải sửa thẳng vào code chương trình.
Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm hiện mới chỉ ra những sản phẩm cơ bản
nhưng tới đây, có thể tận dụng hệ thống sang số để chuyển thành những
sản phẩm khác về tiền gửi, tiền vay một cách đa dạng hơn hoặc tận dụng
hệ thống báo cáo quản trị để phân tích đánh giá hoạt động của một ngân
hàng. “Nếu có core banking thì việc tạo ra sản phẩm hoàn toàn phụ thuộc
vào trí tưởng tượng của con người!” – Ông Quang A nói.
Hiện nay, một số ngân hàng thương mại cổ phần như Techcombank, ACB,
Sacombank… kể từ lúc triển khai “core” mới đã tạo đột phá trong khai
thác sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
Ông Lê Xuân Vũ – Giám đốc Trung tâm Ứng dụng và Phát triển các sản
phẩm dịch vụ công nghệ Techcombank cho biết, phần mềm mới của
Techcombank cho phép thực hiện tới 1.000 giao dịch/giây, quản trị tới 50
triệu tài khoản khách hàng và hỗ trợ thực hiện giao dịch qua hệ thống
24h/ngày.
“Core” phải gắn với nhân lực và sản phẩm
Mặc dù các ngân hàng đều xác định đầu tư vào công nghệ là đầu tư khôn
ngoan nhất nhưng tính đến nay, trong số gần 100 ngân hàng thương mại và
các định chế ngân hàng đang hoạt động trên thị trường thì chỉ có khoảng
16 đơn vị đầu tư “core”.
Khác với các ngân hàng thương mại trong nước, những ngân hàng, tổ
chức tài chính, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài được trang bị hệ
thống core banking cực kỳ hiện đại do họ mang từ ngân hàng mẹ sang,
điển hình như ANZ, Duchbank, HSBC, Citibank.
Những ngân hàng này thừa hiểu, khi đầu tư vào “core”, lập tức tên
tuổi ngân hàng đó sẽ khẳng định được đẳng cấp, tổng tích tài sản tăng,
dễ dàng mở rộng quy mô, sản phẩm dịch vụ. Chưa kể, nhờ đó, tính bảo mật
thông tin cao hơn, hạch toán sổ sách chứng từ kế toán thuận tiện hơn.
Thực tế hiện nay, đầu tư “core” đã khó nhưng đưa “core” đó vận hành vào hệ thống lại là chuyện khó hơn.
Thứ nhất, hệ thống “core” mới phải thoả mãn yêu cầu quản lý của ngân
hàng nhà nước. Bà Thu Ba cho biết: “Quy trình nghiệp vụ từ ngân hàng nhà
nước rót xuống các ngân hàng thương mại nhiều lúc không tương thích với
hệ thống core banking của các ngân hàng, nhất là đối với các ngân hàng
nước ngoài”.
Ví dụ khi phân loại tài khoản, có những loại thì phân loại theo tiền,
có những loại thì gộp chung. Với hệ thống tài khoản nước ngoài là đa tệ
và chỉ cần một tài khoản có thể áp dụng với nhiều ngoại tệ khác nhau,
nhưng ở Việt Nam, hệ thống tài khoản, mẫu báo cáo thường thay đổi và các
core banking nước ngoài rất khó đáp ứng.
Thứ hai, mặc dù các ngân hàng rất mong muốn phát triển mạnh sản phẩm,
dịch vụ nhưng trong bối cảnh thói quen sử dụng tiền mặt vẫn phổ biến,
cộng với hệ thống hạ tầng chưa tốt nên việc phát triển và kết nối sản
phẩm, dịch vụ vô cùng khó khăn.
Thứ ba, khi sử dụng hệ thống thông tin mới luôn gắn với việc “làm
mới” ngân hàng, phải cải tổ toàn bộ hoạt động từ tổ chức, đào tạo người,
quy trình làm việc và đó thực sự là quá trình khó khăn, mệt mỏi.
Ông Nguyễn Quang A nói: “Dùng một công cụ đắt tiền, hiện đại mà áp
vào một quy trình làm việc giống hệt như cũ thì hoàn toàn phí tiền và
không mang lại kết quả gì nhiều, ngoại trừ số liệu có thể chính xác hơn,
nhanh hơn”. Bởi lẽ, quá trình này đụng chạm đến con người, tập quán,
văn hoá, tổ chức và có thể cả quyền lợi, nhất là đối với các ngân hàng
quốc doanh. ngân hàng càng lớn, càng có truyền thống thì quá trình lột
xác càng khó khăn.
Cũng theo ông Quang A, để phát huy hết tính năng và công hiệu của
công nghệ thì trong mỗi ngân hàng, từ giám đốc, phòng ban, nhân viên
phải thay đổi lề thói, quy trình làm việc, tầm nhìn chiến lược và sản
phẩm dịch vụ. Nếu không thì mua “core” chỉ để… đánh bóng thương hiệu mà
thôi.
(http://eac.vn – theo VNeconomy)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét