Pages

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Core Banking T24: Sản phẩm tốt nhất thế giới xử lý nghiệp vụ lõi dành cho ngân hàng

Giới thiệu hệ thống Core Banking T24

Hệ thống Core Banking T24 được xây dựng và phát triển bới Công ty Temenos có trụ sở chính tại Thụy Sỹ - cái nôi của ngành ngân hàng, T24 là một trong hai giải pháp ngân hàng hàng đầu được sử dụng rộng rãi trên thế giới và tại Việt Nam
T24 Core Banking là công nghệ ngân hàng mới, hỗ trợ cho việc triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, đã được triển khai tại gần 800 tổ chức tài chính-ngân hàng trên thế giới. T24 Core Banking là 1 giải pháp mang tính tùy biến cao, giúp ngân hàng nhanh chóng phát triển sản phẩm mới, kịp thời cải tiến các quy trình hiện có để đáp ứng nhu cầu thị trường. T24 có thể tự động hóa các lịch trình công việc, do vậy cho phép phản hồi nhanh các yêu cầu của khách hàng. Dựa trên T24, việc quản lý dữ liệu khách hàng, xây dựng các sản phẩm mới, tạo báo cáo về hoạt động ngân hàng... sẽ rất nhanh chóng và có hệ thống.
Hệ thống T24 bao gồm tất cả các nghiệp vụ của một ngân hàng bán lẻ như: tiền gửi, tiền vay, chuyển tiền, tài trợ thương mại, kinh doanh nguồn vốn, kinh doanh ngoại tệ, kế toán... Hệ thống T24 sẽ hỗ trợ ngân hàng đẩy mạnh công tác quản lý thông tin khách hàng nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, phát triển thêm các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, nâng cao công tác quản trị rủi ro, cải thiện năng suất làm việc của nhân viên, tiết kiệm chi phí hoạt động và chi phí quản lý phù hợp với định hướng chiến lược kinh doanh của Ngân hàng.
Mô hình hệ thống T24
(Đầu trang)

Phần mềm ngân hàng có một đặc điểm rất đặc thù, đó là: Dù có kiến thức tốt về công nghệ nhưng nếu không phải là những người có nhiều kinh nghiệm về dịch vụ ngân hàng thì cũng khó nắm bắt hay xây dựng được một hệ thống phần mềm với các tính năng vượt trội, mềm dẻo đón đầu được sự phát triển mở rộng của một ngân hàng trong tương lai.
Trong thực tế cũng đã chứng minh, rất nhiều sản phẩm công nghệ được phát triển bới các đối tác lớn, với những tính năng ưu việt, nhưng đối tác triển khai không đủ kiến thức am hiểu sâu sắc về hệ thống đó thì việc triển khai cũng không đạt được kết quả như mong đợi, vì vậy việc triển khai các sản phẩm của các đối tác nước ngoài phụ thuộc rất nhiều vào sự am hiểu sâu sắc của đối tác địa phương (local partner), điều này càng đúng hơn với các sản phẩm, giải pháp trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng.


Các bước triển khai hệ thống T24 mới cho TCTD

Bằng kinh nghiệm thực tiễn,  triển khai hệ thống T24 với các bước thực hiên chính như sau:
  • Khởi động dự án (Project Initiation)
  • Đào tạo giới thiệu tổng quan (Introduction Training)
  • Biên dịch, chuẩn bị ứng dụng ban đầu (Initial System Build)
  • Phân tích yêu cầu (Analysis)
    • Phân tích quy trình nghiệp vụ (Business Process Alignment)
    • Tiếp nhận và phân tích yêu cầu nghiệp vụ giao tiếp với các hệ thống khác (Business Interface Review)
    • Tiếp nhận và phân tích yêu cầu kỹ thuật giao tiếp với các hệ thống khác (Technical Interface Review)
  • Xây dựng hệ thống, tham số hóa theo yêu cầu của ngân hàng (Parameterization and System Build)
  • Đào tạo nâng cao cho các cán bộ chính của ngân hàng (Advanced Training)
  • Thực hành kịch bản nghiệm thu (UAT), có thể thực hiện nhiều vòng tùy thuộc vào yêu cầu và thời gian golive của ngân hàng.
  • Triển khai chính thức (Golive), chạy song song với hệ thống cũ của ngân hàng trong thời gian đầu (thông thường là 1 tuần)
  • Hỗ trợ sau khi triển khai chính thức (Post go-live support)
Song song với việc xây dựng và triển khai hệ thống mới, các giai đoạn chuyển đổi dữ liệu được thực hiện tương ứng để chuyển dữ liệu thử từ hệ thống cũ sang hệ thống T24, các bước được thực hiện như sau:
  • Thống nhất các file dữ liệu chuyển đổi, định dạng file chuyển đổi và các quy tắc nghiệp vụ khi chuyển đổi 
  • Ngân hàng là đơn vị xuất dữ liệu từ hệ thống cũ sang hệ thống mới
  • Cập nhật dữ liệu vào hệ thống T24
  • Ngân hàng thực hiện đối chiếu dữ liệu đã chuyển đổi vào
  • Chuyển đổi dữ liệu thử nghiệm được thực hiện qua nhiều vòng, tương ứng với các vòng kiểm tra theo kịch bản nghiệm thu.
  • Chuyển đổi chính thức khi go-live


Các bước triển khai nâng cấp T24

  • Xác định phạm vị nâng cấp và kịch bản nâng cấp (Scoping)
  • Chuyển đổi mã nguồn từ hệ thống cũ để tương thích với phiên bản mới (Technical Upgrade and local code conversion)
  • Nâng cấp thử (Trial Upgrade)
  • Bàn giao tài liệu các bước thực hiện nâng cấp (Run Book Delivery)
  • Nâng cấp tại đơn vị (Onsite Upgrade)
  • Kiểm tra theo kịch bản nghiệm thu (UAT)
  • Nâng cấp chính thức (Golive)
  • Hỗ trợ sau khi nâng cấp (Post golive support)

Tổng quan hệ thống Core Banking

Hiện có khoảng 100 ngân hàng thương mại, định chế tài chính, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài nhưng không nhiều trong số đó đầu tư core banking.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào cũng tận dụng hết tài nguyên của “core”. Thậm chí, có ngân hàng mua “core” chỉ để đánh bóng…
Nhận xét về vai trò của core banking trong hoạt động ngân hàng thương mại, ông Nguyễn Quang A, thành viên Hội đồng Quản trị VP Bank nói: “Tiền, tài sản thế chấp trong ngân hàng thực ra chỉ ở trên giấy, sổ sách kế toán, dữ liệu máy tính… chỉ hiển thị bằng thông tin và quản lý cái đó thông qua thông tin chứ không thể quản lý tài sản vật lý. Lõi banking chính là hạt nhân toàn bộ hệ thông tin của một hệ thống ngân hàng”.
Công nghệ nào, sản phẩm ấy
Đồng tình với ông Quang A, bà Thu Ba, Trưởng phòng công nghệ thông tin SHB, cho rằng: core banking chính là một hệ thống các phân hệ nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng như tiền gửi, tiền vay, khách hàng. Thông qua đó, ngân hàng phát triển thêm nhiều dịch vụ, sản phẩm và quản lý nội bộ chặt chẽ, hiệu quả hơn.
Trước đây, khi các ngân hàng chưa có “core” hiện đại hoặc dùng “core” lỗi thời, việc quản lý khách hàng rất rải rác và vô cùng bất tiện cho khách hàng. Tiền gửi ở đâu, phải đến đó, không thể rút ở điểm giao dịch khác, mặc dù các điểm này đều trong cùng hệ thống một ngân hàng.
Thậm chí, khách hàng muốn giao dịch ở bao nhiêu điểm thì phải mở bấy nhiêu tài khoản. Với sự ra đời của core banking hiện đại, khách hàng chỉ cần có một mã duy nhất ở ngân hàng là có thể giao dịch với rất nhiều sản phẩm và ở bất cứ điểm giao dịch trong cùng hoặc không trong cùng một hệ thống.
Ngoài ra, sự ưu việt của phần mềm mới còn ở chỗ chúng chứa tham số rất lớn để mỗi khi ngân hàng muốn phát triển một dịch vụ, sản phẩm sẽ dễ dàng hơn, chỉ cần định nghĩa tham số là có thể tạo sản phẩm mới mà không phải sửa thẳng vào code chương trình.
Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm hiện mới chỉ ra những sản phẩm cơ bản nhưng tới đây, có thể tận dụng hệ thống sang số để chuyển thành những sản phẩm khác về tiền gửi, tiền vay một cách đa dạng hơn hoặc tận dụng hệ thống báo cáo quản trị để phân tích đánh giá hoạt động của một ngân hàng. “Nếu có core banking thì việc tạo ra sản phẩm hoàn toàn phụ thuộc vào trí tưởng tượng của con người!” – Ông Quang A nói.
Hiện nay, một số ngân hàng thương mại cổ phần như Techcombank, ACB, Sacombank… kể từ lúc triển khai “core” mới đã tạo đột phá trong khai thác sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
Ông Lê Xuân Vũ – Giám đốc Trung tâm Ứng dụng và Phát triển các sản phẩm dịch vụ công nghệ Techcombank cho biết, phần mềm mới của Techcombank cho phép thực hiện tới 1.000 giao dịch/giây, quản trị tới 50 triệu tài khoản khách hàng và hỗ trợ thực hiện giao dịch qua hệ thống 24h/ngày.
“Core” phải gắn với nhân lực và sản phẩm
Mặc dù các ngân hàng đều xác định đầu tư vào công nghệ là đầu tư khôn ngoan nhất nhưng tính đến nay, trong số gần 100 ngân hàng thương mại và các định chế ngân hàng đang hoạt động trên thị trường thì chỉ có khoảng 16 đơn vị đầu tư “core”.
Khác với các ngân hàng thương mại trong nước, những ngân hàng, tổ chức tài chính, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài được trang bị hệ thống core banking cực kỳ hiện đại do họ mang từ ngân hàng mẹ sang, điển hình như ANZ, Duchbank, HSBC, Citibank.
Những ngân hàng này thừa hiểu, khi đầu tư vào “core”, lập tức tên tuổi ngân hàng đó sẽ khẳng định được đẳng cấp, tổng tích tài sản tăng, dễ dàng mở rộng quy mô, sản phẩm dịch vụ. Chưa kể, nhờ đó, tính bảo mật thông tin cao hơn, hạch toán sổ sách chứng từ kế toán thuận tiện hơn.
Thực tế hiện nay, đầu tư “core” đã khó nhưng đưa “core” đó vận hành vào hệ thống lại là chuyện khó hơn.
Thứ nhất, hệ thống “core” mới phải thoả mãn yêu cầu quản lý của ngân hàng nhà nước. Bà Thu Ba cho biết: “Quy trình nghiệp vụ từ ngân hàng nhà nước rót xuống các ngân hàng thương mại nhiều lúc không tương thích với hệ thống core banking của các ngân hàng, nhất là đối với các ngân hàng nước ngoài”.
Ví dụ khi phân loại tài khoản, có những loại thì phân loại theo tiền, có những loại thì gộp chung. Với hệ thống tài khoản nước ngoài là đa tệ và chỉ cần một tài khoản có thể áp dụng với nhiều ngoại tệ khác nhau, nhưng ở Việt Nam, hệ thống tài khoản, mẫu báo cáo thường thay đổi và các core banking nước ngoài rất khó đáp ứng.
Thứ hai, mặc dù các ngân hàng rất mong muốn phát triển mạnh sản phẩm, dịch vụ nhưng trong bối cảnh thói quen sử dụng tiền mặt vẫn phổ biến, cộng với hệ thống hạ tầng chưa tốt nên việc phát triển và kết nối sản phẩm, dịch vụ vô cùng khó khăn.
Thứ ba, khi sử dụng hệ thống thông tin mới luôn gắn với việc “làm mới” ngân hàng, phải cải tổ toàn bộ hoạt động từ tổ chức, đào tạo người, quy trình làm việc và đó thực sự là quá trình khó khăn, mệt mỏi.
Ông Nguyễn Quang A nói: “Dùng một công cụ đắt tiền, hiện đại mà áp vào một quy trình làm việc giống hệt như cũ thì hoàn toàn phí tiền và không mang lại kết quả gì nhiều, ngoại trừ số liệu có thể chính xác hơn, nhanh hơn”. Bởi lẽ, quá trình này đụng chạm đến con người, tập quán, văn hoá, tổ chức và có thể cả quyền lợi, nhất là đối với các ngân hàng quốc doanh. ngân hàng càng lớn, càng có truyền thống thì quá trình lột xác càng khó khăn.
Cũng theo ông Quang A, để phát huy hết tính năng và công hiệu của công nghệ thì trong mỗi ngân hàng, từ giám đốc, phòng ban, nhân viên phải thay đổi lề thói, quy trình làm việc, tầm nhìn chiến lược và sản phẩm dịch vụ. Nếu không thì mua “core” chỉ để… đánh bóng thương hiệu mà thôi.
(http://eac.vn – theo VNeconomy)

Nỗi lo từ 2 đại gia viễn thông Trung Quốc Huawei và ZTE

Nỗi lo từ 2 đại gia viễn thông Trung Quốc
TT - Ủy ban tình báo Hạ viện Mỹ vừa công bố hai tập đoàn viễn thông Trung Quốc là Huawei và ZTE đe dọa an ninh Mỹ. Ở VN, thiết bị của hai đại gia viễn thông Trung Quốc này được dùng rất phổ biến.
Nhiều chuyên gia an ninh mạng cảnh báo Nhà nước cần lưu tâm đến vấn đề này.

Hai mẫu điện thoại Huawei được bán tại một cửa hàng điện thoại trên đường Giải Phóng, Hà Nội - Ảnh: Nguyễn Khánh
Bắt đầu thực hiện từ tháng 11-2011, báo cáo khẳng định đã nhận được những tài liệu nội bộ của Huawei. Chúng cho thấy công ty này cung cấp dịch vụ mạng cho một tổ chức đặc biệt, có thể là đơn vị chiến tranh mạng của quân đội Trung Quốc. Phía Mỹ cũng lo ngại các công ty này luôn phải tuân thủ khi Chính phủ Trung Quốc muốn tiếp cận hệ thống mạng của họ.
Gián điệp?
"Theo tôi, Nhà nước cần phải thành lập một ủy ban kiểm tra gồm các chuyên gia an toàn thông tin và thực hiện theo dõi kiểm tra thiết bị của hai hãng trên đang sử dụng tại các nhà cung cấp cũng như các thiết bị đầu cuối như USB 3G, điện thoại..."
Ông VÕ ĐỖ THẮNG
Báo cáo của Ủy ban tình báo Hạ viện Mỹ nhắc đến việc một số công ty Mỹ sử dụng thiết bị của Huawei và ZTE từng gặp phải những trường hợp “kỳ lạ” và “đáng báo động”. Hồi đầu năm, nhiều chuyên gia an ninh Mỹ cáo buộc một số thiết bị của Huawei và ZTE được cài sẵn mã độc để chuyển thông tin nhạy cảm từ Mỹ về Trung Quốc.
AFP cho biết hồi đầu năm, nhà chức trách Mỹ đã ngăn việc Huawei mua lại Công ty vi tính Mỹ 3Leaf Systems. Không chỉ Mỹ, Úc cũng đề phòng Huawei. Chính quyền và Quốc hội Úc đã ngăn Huawei tham gia đấu thầu dự án băng thông rộng trị giá 36,6 tỉ USD ở Úc. Chính quyền Úc khẳng định làm như vậy vì lo ngại nguy cơ bị Trung Quốc tấn công mạng và đánh cắp thông tin tình báo. Các quan chức Huawei đã vận động hành lang dữ dội nhưng vẫn bị các nghị sĩ Úc tẩy chay.
“Chúng ta không thể tin tưởng giao các hệ thống quan trọng cho những công ty có quan hệ mật thiết với Chính phủ Trung Quốc. Mà Trung Quốc là thủ phạm tấn công mạng lớn nhất nhắm vào Mỹ” - báo Wall Street Journal dẫn lời chủ tịch Ủy ban tình báo Hạ viện Mỹ Mike Rogers.
Theo Wall Street Journal, các cơ quan tình báo Mỹ xác định thời gian qua Trung Quốc liên tục tổ chức các cuộc tấn công trên mạng nhắm vào hàng loạt tập đoàn Mỹ và thậm chí cả mạng quân sự của Nhà Trắng.
Do đó Ủy ban tình báo Hạ viện Mỹ yêu cầu chính quyền Washington ngăn chặn mọi hợp đồng mua bán, sáp nhập mà Huawei và ZTE thực hiện tại Mỹ. Các cơ quan quan trọng của Mỹ, cũng như các nhà thầu làm việc trong các chương trình nhạy cảm của chính phủ, không nên mua các thiết bị của Huawei và ZTE. Ủy ban cũng kêu gọi các công ty Mỹ nghiêm túc xem xét những nguy cơ an ninh khi mua dịch vụ và thiết bị của Huawei và ZTE.
USB 3G được các mạng điện thoại di động bán cho khách hàng đều có nguồn gốc từ hai hãng Huawei và ZTE - Ảnh: Thanh Đạm
Huawei và ZTE tràn lan tại Việt Nam
Tại Việt Nam, sự hiện diện các thiết bị viễn thông của Huawei và ZTE đã quá rõ ràng và quá nhiều. Điển hình chính là những chiếc USB 3G được các mạng di động MobiFone, Vinaphone, Viettel, Vietnamobile cung cấp ra thị trường. Dù mang trên mình thương hiệu của các mạng di động Việt Nam, nhưng thực chất những sản phẩm này đều do Huawei và ZTE cung cấp.
Ngoài ra trên thị trường còn có nhiều thiết bị USB 3G mang thương hiệu Huawei và ZTE. Người dùng Việt Nam có thể mua những thiết bị trên hoàn toàn dễ dàng với giá chỉ vài trăm nghìn đồng từ các cửa hàng máy tính, điện thoại...
Theo thống kê của Bộ Thông tin và truyền thông, tính đến cuối năm 2011 Việt Nam có 16 triệu thuê bao 3G. Theo thống kê của một công ty nghiên cứu thị trường, lượng người dùng 3G thông qua USB 3G chiếm hơn 50%. Như vậy tại Việt Nam hiện có hơn 8 triệu thuê bao sử dụng thiết bị USB 3G, trong đó Huawei và ZTE chiếm phần lớn.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện cả ba nhà mạng di động lớn của Việt Nam là MobiFone, Vinaphone và Viettel đều đang sử dụng nhiều thiết bị viễn thông của Huawei, ZTE từ việc xây dựng hạ tầng mạng đến thiết bị đầu cuối.
Đại diện một nhà mạng thừa nhận có sử dụng thiết bị của Huawei, nhưng cho rằng: “Các trang thiết bị viễn thông trước khi nhập về sử dụng đều phải qua kiểm tra chặt chẽ phù hợp với tiêu chuẩn ngành, quy định an ninh quốc gia. Ngoài ra mỗi nhà mạng đều có những cách riêng nhằm “đảm bảo an ninh tuyệt đối”.
Chẳng hạn có nhà mạng sử dụng nhiều thiết bị của nhiều nhà sản xuất khác nhau cùng lắp ráp vào một trạm hay một bộ phận, đảm bảo không có nhà sản xuất nào độc quyền trong một bộ máy...”.
Cần quan tâm đến an toàn thông tin
Đánh giá về sự nguy hiểm của việc do thám bằng thiết bị viễn thông, ông Nguyễn Minh Đức, giám đốc an ninh mạng Bkav, cho hay các thiết bị mạng viễn thông từ thiết bị người dùng đầu cuối đến thiết bị hạ tầng mạng của nhà cung cấp dịch vụ nếu bị cài gián điệp thì các hoạt động liên lạc, giao dịch kết nối qua thiết bị đó sẽ dễ dàng bị lấy cắp. Đó là nguy cơ lớn nhất.
Xa hơn, hạ tầng mạng có thể bị can thiệp, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Tuy nhiên việc kiểm tra phát hiện là rất khó khăn, chẳng hạn thiết bị lúc đầu sản xuất ra chưa được cài gián điệp, nhưng sau đó trong quá trình sử dụng sẽ được cập nhật các phần mềm điều khiển, sửa lỗi... Phần mềm gián điệp có thể được cài sau theo hướng này khiến người dùng chủ quan không hay biết.
Ông Võ Đỗ Thắng, giám đốc Trung tâm đào tạo và an ninh mạng Athena, nhận định: “Nếu đây là sự thật thì không những thông tin của người sử dụng thiết bị của hai hãng trên như USB 3G, điện thoại... mà đến các nhà cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin, viễn thông tại Việt Nam cũng có thể bị theo dõi, đánh cắp thông tin, xâm nhập hệ thống... Đây là một việc rất nguy hiểm đến an toàn thông tin, thậm chí đến bí mật quốc gia.
Tuy nhiên, thực tế rất khó phát hiện và ngăn chặn nguy cơ gián điệp trên. Theo tôi, Nhà nước cần phải thành lập một ủy ban kiểm tra gồm các chuyên gia an toàn thông tin và thực hiện theo dõi kiểm tra thiết bị của hai hãng trên đang sử dụng tại các nhà cung cấp cũng như các thiết bị đầu cuối như USB 3G, điện thoại...”.
ĐỨC THIỆN - SƠN HÀ
ThS NGÔ ĐỨC HOÀNG (giám đốc Trung tâm nghiên cứu đào tạo và thiết kế vi mạch ICDREC - ĐHQG TP.HCM):
Rất khó phát hiện thiết bị gián điệp
Chuyện cài gián điệp vào thiết bị điện tử, chính xác là trong các con chip vi mạch, trong chuyên ngành kỹ thuật người ta gọi là cài đặt “cửa hậu” (backdoor), được thực hiện rất dễ dàng, nhưng chỉ có những người thiết kế ra con chip đó mới làm được. Con chip vi mạch được cài đặt backdoor sẽ được sử dụng trong các thiết bị điện tử (USB 3G, điện thoại di động, máy tính, thiết bị điện tử viễn thông, công nghệ thông tin...).
Thông qua kết nối mạng, backdoor sau này được sử dụng để lấy thông tin của thiết bị gắn con chip đó, rộng hơn là của mạng sử dụng thiết bị đó, thậm chí điều khiển từ xa hoạt động của một hệ thống...
Để phát hiện backdoor là việc rất khó. Một thiết bị đơn giản như USB 3G, muốn kiểm chứng có backdoor trên chip hay không phải theo dõi việc có hay không có xuất hiện một lệnh điều khiển từ xa. Quá trình theo dõi này phải mất một thời gian rất dài mà vẫn chưa chắc phát hiện vì có thể trong suốt thời gian theo dõi, backdoor đã được cài đặt không hề nhận được lệnh điều khiển từ xa nên cũng không hoạt động.
Tiếp cận 80% thông tin liên lạc thế giới
Trang Internal Business Times dẫn tuyên bố của Michael Maloof, cựu chuyên viên phân tích chính sách bảo mật tại Văn phòng bộ trưởng quốc phòng Mỹ, khẳng định ZTE và Huawei cho phép chính phủ và quân đội Trung Quốc tiếp cận một lượng khổng lồ những thông tin điện tử trên toàn thế giới, gồm các dữ liệu tình báo và quân sự nhạy cảm.
Theo ông Maloof, Trung Quốc có khả năng truy cập từ xa thông qua thiết bị hai công ty này cài đặt trong các mạng viễn thông ở 140 nước, từ Malaysia, Philippines, Ấn Độ cho đến Nga, Brazil. Ông cũng nhận định khả năng tiếp cận 80% thông tin liên lạc của thế giới có thể giúp Bắc Kinh theo dõi về mặt điện tử các cơ sở hạ tầng trọng yếu ở Mỹ và các nước khác. Đáng lo ngại hơn, ông tin rằng Bắc Kinh đang ráo riết tìm cách tiếp cận 20% lượng thông tin còn lại.
Ngoài ra, các dịch vụ mạng thương mại do hai công ty trên thiết lập tại nhiều quốc gia cũng có nguy cơ là công cụ phục vụ các hoạt động xâm nhập điện tử từ xa. Theo ông Maloof, các hoạt động liên lạc của công ty Mỹ qua mạng riêng ảo tại những nước sử dụng thiết bị mạng của ZTE và Huawei, như Mexico, đều có thể bị theo dõi.
TR.PHƯƠNG

Cisco WebEx–Gã khổng lồ trong thị trường hội nghị trực tuyến nền web

Cisco WebEx–Gã khổng lồ trong thị trường hội nghị trực tuyến nền web

Cisco WebEx Meeting nhắm đến tổ chức hoặc doanh nghiệp vừa và nhỏ, những đơn vị dè dặt mua các phần cứng, hoặc ứng dụng tổ chức hội nghị phức tạp.
Hội nghị trực tuyến nền web tuy phổ biến trên thế giới nhưng vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Trước đây, để có một hội nghị trực tuyến giữa các bên có khoảng cách địa lý, người ta hình dung ra việc bỏ công mua phần cứng, lắp đặt phần mềm phức tạp và các điều kiện bằng thông cần thiết. Điều này gây khó cho doanh nghiệp do chi phí cao và mức độ hiểu biết cách vận hành hệ thống.Do đó, những bước đi mới mẻ về hội nghị trực tuyến nền web được quan tâm hơn bao giờ hết do giải quyết được vấn đề lắp đặt thiết bị và chi phí cao nói trên. Có thể nói trong lĩnh vực này, Cisco WebEx là một trong những tên tuổi hàng đầu, dày dạn kinh nghiệm và thường xuyên có những cải tiến vượt bậc.
Hội nghị trực tuyến nền web hoạt động dựa trên ý tưởng một website chủ quản sẽ tổ chức và quản lý chuyên nghiệp các buổi hội nghị trực tuyến giữa các thành viên có khoảng cách địa lý vô cùng đơn giản chỉ với vài cú click chuột. Tương tự vậy, người dùng dịch vụ Cisco WebEx chỉ cần truy cập vào website http://www.WebEx.com và thao tác đơn giản là có thể tạo ngay một cuộc họp/ hội nghị trực tuyến. Tất cả chỉ cần có một chiếc máy tính nối mạng internet và 1 chiếc webcam.
Cisco WebEx làm hài lòng người dùng hơn khi cho biết thành viên cuộc họp hoàn toàn có thể tham dự từ xa ngay trên các thiết bị smartphone nền tảng Android, iOS, máy tính bảng, điện thoại di động có kết nối 3G, 4 G... Điều này mang tới sự tiện dụng cao và mới mẻ cho những cuộc họp trực tuyến mới.
 Cisco WebEx Meeting là sản phẩm “đinh” trong chuỗi các dịch vụ truyền thông trực tuyến nền web trên. Đây là dịch vụ tạo hội nghị/cuộc họp trực tuyến mạnh mẽ thông qua website của WebEx, hoạt động thậm chí trên những đường truyền băng thông hạn chế với hình ảnh video độ nét cao, tiết kiệm chi phí, bảo mật thông tin chặt chẽ.
 Cisco WebEx Meeting rất lý tưởng trong việc chia sẻ, trình diễn tài liệu hoặc xem trực tiếp màn hình của các thành viên tham gia hoặc thậm chí ghi lại toàn bộ hình ảnh và nội dung cuộc họp, các dữ liệu trong cuộc họp được kiểm soát một cách nghiêm ngặt và an toàn.
Cisco WebEx Meeting nhắm đến tổ chức hoặc doanh nghiệp vừa và nhỏ, những đơn vị dè dặt mua các phần cứng, hoặc ứng dụng tổ chức hội nghị phức tạp.
Chắc chắn sẽ có phân vân về mức độ tập trung trong cuộc họp trực tuyến. Nhưng Cisco WebEx Meeting đã giúp khách hàng yên tâm với những tính năng thông minh của mình. Đó là việc cung cấp hình ảnh trực tuyến thời gian thực sống động, chủ cuộc họp có thể theo dõi màn hình người tham dự cuộc họp, liệt kê các công việc cần thực hiện và phân việc ngay trên cuộc họp trực tuyến, ghi chép và lưu lại mọi tài liệu chia sẻ qua lại trong buổi họp để theo dõi và hoàn thành. Bên cạnh đó Cisco WebEx Meeting tích hợp tính năng nhắc nhở cuộc họp thông qua Microsoft Outlook Calendar.
Với những tính năng mạnh mẽ của mình, Cisco WebEx Meeting được coi là hàng “khủng” của Cisco và là đối thủ đáng gờm trên thị trường các dịch vụ hội nghị trực tuyến nền web.
 
Bên cạnh đó, Cisco WebEx còn đáp ứng nhiều nhu cầu truyền thông đa phương tiện nền web khi cho ra đời nhiều dịch vụ khác như đào tạo trực tuyến, hỗ trợ khách hàng, quản lý bán hàng hiệu quả.
Cisco WebEx Training Center-một giải pháp đào tạo trực tuyến, dễ dàng thiết lậplớp học trực tuyến bất kỳ đâu. Bạn cũng có thể lưu trữ và gửi những đoạn ghi âm để xem lại và tự học. Cung cấp một môi trường học tập tương tác năng động và quản lý học viên tốt hơn. Người dùng có thể chia sẻ dữ liệu, ứng dụng, làm việc qua hình ảnh/ video trực tuyến, làm các nghiên cứu và các phần thi trực.
Đáp ứng mọi nhu cầu đào tạo: bán hàng, nhân viên, khách hàng, đối tác, theo yêu cầu với nhiều hình thức tổ chức lớp học: có người hướng dẫn, theo nhóm, huấn luyện, ghi âm.
Cisco WebEx Support Center cung cấp sự hỗ trợ và những dịch vụ khách hàng trực tuyếncho nhân viên và khách hàng ở bất kỳ nơi nàotrên thế giới, giảm chi phí trong khi vẫn tăng năng suất cho đội ngũ hỗ trợ. Cung cấp cho khách hàng những dịch vụ hỗ trợ tốt hơn bằng cách ghi âm thông qua mạng, phân tích và cải thiện quy trình hỗ trợ từ những báo cáo chi tiết.
Cisco WebEx Event Center đẩy nhanh tiến độ bán hàngvà tăng cườngthông tin liên lạc nội bộ, loại bỏ mọi rào cản để tiếp cận với khách hàng, tổ chức sự kiện và theo dõi kết quả hiệu quả hơn, mở rộng tiếp cận với một giải pháp an toàn dựa giải pháp điện toán đám mây.
Ngoài ra, Cisco WebEx còn nhiều ứng dụng phong phú với những trải nghiệm tuyệt vời cho khách hàng:Cisco WebEx Telepresence,Cisco WebEx Connect IMCisco WebEx Social.
Hiện tại khách hàng có thể thử nghiệm miễn phí các dịch vụ hàng đầu này với tài khoản Free Basic. Chỉ cần truy cập vào http://www.webEx.com và đăng ký tài khoản Free Basic, người dùng có thể trải nghiệm được hầu hết các chức năng của dịch vụ này một cách chân thực nhất.
Webex đã hỗ trợ trên hầu hết các bộ các nền tảng HĐH trên smartphone hiện nay như IOS, Andoid và Windowsphone. Khách hàng có thể tải các phần mềm miễn phí từ các kho ứng dụng của smartphone để trải nghiệm một trong những nền tảng web conference tốt nhất hiện nay.

5 bài học diễn thuyết từ CEO của Cisco




Mới đây, hãng công nghệ truyền thông Cisco Systems đã công bố một chiến dịch quảng cáo và tiếp thị đầy tham vọng trị giá 100 triệu USD nhằm giá tăng mức độ nhận thức nhãn hiệu của người tiêu dùng hàng ngày đối với các sản phẩm của hãng. Chiến dịch quảng cáo làm mọi người nhớ tới cuốn sách best-seller một thời về CEO John Chamber, 10 Simple Secrets of the World's Greatest Business Communicators (10 bí mật đơn giản của Nhà giao tiếp kinh doanh lớn nhất thế giới).
Nhiều người đã phải ngạc nhiên trước khả năng "làm say đắm lòng người" của John Chambers khi đứng trước đám đông nhân viên, khách hàng và các nhà đầu tư. Không ai phản đối, Chambers đã trở thành một trong những nhà giao tiếp kinh doanh thuyết phục nhất nước Mỹ ngày nay. Còn bây giờ, hãy hình dung bạn sẽ thành công như thế nào trong giao tiếp kinh doanh một khi khách hàng luôn phải "ngạc nhiên và sửng sốt" vì bạn.
Thử hình dung bạn sẽ thành công thế nào nếu có thể kết hợp hiệu quả 5 kỹ năng giao tiếp, trình bày và diễn đạt trước đám đông mà John Chamber - CEO của công ty công nghệ Cisco System đã đúc kết sau đây.
Bán lợi ích.
Cisco bán những gì? Về bề ngoài, Cisco bán các sản phẩm phần cứng mà phần lớn chúng ta có thể không để ý tới - các bộ router và switch có chức năng kết nối các mạng lưới và cộng đồng người sử dụng trên Internet. Nhưng một khi bạn được lắng nghe những trình bày, giới thiệu của Cisco, bạn sẽ thấy người đàn ông này còn bán được nhiều hơn thế. Chambers bán ước mơ về một thế giới được trở nên tốt hơn nhờ phần cứng của Ciscos, thế giới mà trong đó Internet không ngừng cải thiện cách thức chúng ta sinh sống.
Trong thế giới các doanh nhân mới, Mark Leibovich giải thích tại sao Chambers ban đầu đã đảm nhận công việc bán hàng tại IBM khi mà kiến thức của ông thích hợp hơn với công việc tiếp thị hay hoạt động kinh doanh: "Công ty không bán sản phẩm mà trên thực tế là bán những giấc mơ - những giấc mơ về một quy trình kinh doanh được cải thiện hiệu quả hơn. Đó chính là triết lý cho phép Chambers rao giảng những niềm hy vọng và triển vọng tuyệt vời hơn những gì ông thực sự đang bán". Hãy bán những giấc mơ. Rao giảng niềm hy vọng. Đó là chìa khoá trong năng lực của Chamber để thuyết phục và động viên mọi người khi giao tiếp, trình bày trước đám đông.
Kể những câu chuyện.
Chiến dịch tiếp thị và quảng cáo mới của Cisco nhắm tới mục tiêu thu hút các nhà đầu tư và khách hàng tiềm năng bằng việc kể nhiều câu truyện khác nhau. Khẩu hiệu quảng cáo của chiến dịch là "Giọng nói của Mạng lưới con người" (Voices of the Human Network) và giải thích Internet đang làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và kết nối mọi người trên toàn thế giới như thế nào. Đó là một chủ đề nhất quán trong các buổi nói chuyện, trong các cuộc giao tiếp kinh doanh của Chambers, bán lợi ích của sản phẩm công nghệ bằng việc kể cho mọi người những câu truyện về việc những lợi ích đó cải thiện cuộc sống con người như thế nào.
Trên trang web của Cisco, công ty luôn động viên mọi người chia sẻ các câu chuyện liên quan tới tính hiệu quả mà internet tác động tới cuộc sống của họ. Các câu chuyện mang tính chân thành, cá nhân và tràn đầy cảm xúc. Ví dụ, một câu chuyện "Kết nối phương thuốc chữa bệnh" (Connected to a Cure) đã miêu tả một phụ nữ mới sinh con nhiễm một loại virus hiếm liên quan tới đường hô hấp khiến bà thở rất khó. Các bác sỹ bó tay và không thể tìm nổi một bài viết nào được xuất bản về loại virus lạ này. Bà đã đưa câu chuyện của mình lên Internet và rồi đã gặp được một phụ nữ mới sinh khác cũng nhiễm loại virus giống hệt như bà.
Và qua giới thiệu trực tuyến của người phụ nữ kia, bà đã liên hệ với vị bác sỹ hiểu biết về căn bệnh của bà và trong vòng một tháng bà đã khỏi bệnh. Bạn có để ý còn khiếm khuyết điều gì? Yếu tố vui vẻ. Không phải. Sự lạc quan không truyền cảm hứng. Mà chính câu chuyện đã làm như vậy. Chủ đề chung đó là việc kết nối Internet đã đưa mọi người đến gần nhau hơn và đó là một trong những chức năng của sản phẩm Cisco. Nhưng bản thân các thiết bị phần cứng không hấp dẫn mọi người. Mà chính những gì các thiết bị phần cứng làm được cho mọi người mới thực sự lôi cuốn.
Chuẩn bị kỹ lưỡng trở thành một thói quen bắt buộc.
Khi phải chuẩn bị cho một cuộc phỏng vấn, trình bày giới thiệu hay hội thảo, John Chambers luôn diễn tập, trình bày phát biểu thử một đến hai lần. Trong căn phòng 5000 nhân viên, từng người và tất cả mọi người đều cảm thấy như thế Chambers đang nói chuyện trực tiếp với họ. Đó là vì Chambers nỗ lực hết mình để khiến mọi người cảm thấy như đang liên lạc trực tiếp với ông.
Những nhà quản trị khác làm việc gần gũi với Chambers trong các buổi trình bày giới thiệu cho biết ông hoàn toàn tiếp thu và truyền đạt rõ ràng nội dung thông điệp. Nếu ông nói chuyện với bảng trình diễn PowerPoint, ông sẽ xem xét lại nhiều lần các slides được in ra giấy để nhớ kỹ từng gạch đầu dòng một và đảm bảo quy trình diễn ra hợp lý nhất. Nhưng mọi thứ chưa dừng ở đó. Ông biết rõ ở đâu cần chuyển giọng, khi nào cần rời bục nói chuyện và đi xuống với khán giả, khi nào sẽ tán dương mọi người bằng tên riêng, và khi nào thì tạm dừng chốc lát.
Chambers làm chủ hoàn toàn các dữ liệu chuẩn bị cũng như cách thức trình bày, diễn đạt chúng. Sự nhẩm lại cho phép ông diễn tả được những tiếp xúc bằng mắt đối với những luận điểm quan trọng tới tất cả mọi người trong phòng thay vì đọc to từ các chú ý hay các slide trình diễn. Chính những chuẩn bị đã đảm bảo khả năng này. Chambers luôn thể hiện được sự nhiệt tình, say mê, gắn kết và hoàn toàn thoải mái khi giao tiếp, trình bày.
Tự tin sử dụng ngôn ngữ cơ thể.
Những người quan sát cho biết rằng luôn có một chất lượng kiểu "Bộ trưởng tín ngưỡng" trong các bài phát biểu của Chambers. Ông được mệnh danh là một nhà truyền giáo theo nhiều cách khác nhau. Chambers thuyết giáo sức mạnh của Internet kết nối mọi người trên thế giới và minh hoạ nó bằng việc phá vỡ các rào cản vật chất giữa ông và mọi người. Ông đi lại xung quanh khi trình bày, ông biết khi nào đi xuống với khán giả. Ông đặt tay lên vai mọi người. Ông nhìn thẳng vào mắt mọi người. Ông diễn đạt cả bằng những cử chỉ cơ thể. Ngôn ngữ cơ thế của Chambers luôn thích hợp, tự tin và có kiểm soát. Chambers đảm bảo rằng sức mạnh cử động cơ thể của ông thích hợp nhất với sức mạnh lời nói.
Chiến thắng các thách thức cá nhân.
Chambers đã phải vật lộn để chiến thắng chứng bệnh khó đọc. Trong khi chứng bệnh này khiến ông gặp rất nhiều khó khăn trong sự nghiệp, nó vẫn không đánh bại được ý chí quyết tâm của ông. Trong một cuộc phỏng vấn do tạp chí Chief Executive thực hiện, Chamber cho biết ông đã tận dụng thách thức này để đưa ông trở thành một nhà giao tiếp kinh doanh tuyệt vời.
Theo Chambers, chứng bệnh khó đọc đã buộc ông phải nhìn những bức ảnh lớn thay vì đọc chi tiết câu chữ và chính điều này đã giúp đỡ ông rất nhiều hình thành kỹ năng giao tiếp ấn tượng do mọi người giờ đây chán nản với việc lắng nghe các thông tin chi tiết. Họ mong muốn thấy những bức ảnh lớn và Chambers đã làm được điều này. Chứng bệnh đọc khó cũng buộc ông phải nhớ những điểm chính trong bài trình bày và phải chuẩn bị kỹ lưỡng hơn những người khác - kết quả đã dẫn tới một nhà lãnh đạo có khả năng giao tiếp, trình bày một cách thuyết phục, rõ ràng và cuốn hút người nghe.
Xuyên suốt sự nghiệp bán hàng và ngày nay là quản trị cấp cao, Chambers đã không ngừng nỗ lực làm việc để trở thành một nhà giao tiếp kinh doanh hoàn hảo hơn. Những nhà tư vấn bên cạnh ông cho biết họ từ lâu đã xem ông nổi lên như một nhà diễn thuyết tài ba thông qua các nỗ lực làm việc, sự chuẩn bị và gắn kết của ông. Vậy làm thế nào để bạn có thể trở thành một nhà diễn thuyết tuyệt vời? Hãy học hỏi kinh nghiệm của Chambers.
                              
  5 BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐÚC KẾT:
1. Bán lợi ích của sản phẩm, dịch vụ bạn cung cấp. Thay vì sử dụng những miêu tả kỹ thuật, tính năng để bán sản phẩm, bạn cần cho thấy nó có thể giúp ích cho người mua trong cuộc sống hàng ngày. Khả năng diễn giải giá trị của tất cả các khía cạnh lợi ích của công ty, bao gồm cả các sản phẩm, dich vụ, là một phần thiết yếu trong khả năng thuyết phục và động viên các nhà đầu tư, khách hàng và nhân viên của Chambers.
2. Kể những câu chuyện dễ hiểu và ghi nhớ. Chambers luôn thêu dệt thành công những câu chuyện đơn giản và cuốn hút có tác dụng lôi cuốn các nhà đầu tư và các khách hàng tiềm năng. Sự vui nhộn chưa hẳn đã cuốn hút mọi người. Chính các câu chuyện chân thành, mang tính cá nhân và tràn đầy cảm xúc mới có thể làm được điều đó.
3. Hãy chuẩn bị kỹ lưỡng và đảm bảo nó trở thành một thói quen của bạn. Chambers luôn ghi nhớ những điểm chính, dòng chảy và nội dung của bài trình bày, diễn thuyết. Ông biết rõ ở đâu cần chuyển giọng, khi nào cần rời bục nói chuyện và đi xuống với khán giả, khi nào sẽ tán dương mọi người bằng tên riêng, và khi nào thì tạm dừng chốc lát.
4. Hãy phá vỡ các rào cản vật chất giữa bản thân bạn và khách hàng. Chambers luôn đi lại xung quanh khi trình bày, ông biết khi nào đi xuống với khán giả. Ông đặt tay lên vai mọi người. Ông nhìn thẳng vào mắt mọi người. Ông diễn đạt cả bằng những cử chỉ cơ thể. Ngôn ngữ cơ thế của Chambers luôn thích hợp, tự tin và có kiểm soát. Chambers đảm bảo rằng sức mạnh cử động cơ thể của ông thích hợp nhất với sức mạnh lời nói.
5. Tập trung vào một bức tranh lớn thay vì đơn thuần đọc to các chi tiết. Người nghe ngày nay dễ dàng chán nản với các chi tiết cụ thể. Họ mong muốn thấy những bức ảnh lớn và Chambers đã làm được điều này. Ông nhớ những điểm chính trong bài trình bày và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn những người khác - kết quả đã dẫn tới một nhà lãnh đạo có khả năng giao tiếp, trình bày một cách thuyết phục, rõ ràng và cuốn hút người nghe.
                                                                                                                             Theo Business Week

Tổn thất của Cisco - Tăng trưởng của Palo Alto Networks

Tổn thất của Cisco - Tăng trưởng của Palo Alto Networks





                                                            NEW YORK | Thứ năm 12/7/2012. Tác giả Nicola Leske, nguồn: Reuters

Nhiều năm trước khi Cisco System Inc từ bỏ dự án an ninh mạng được biết đến trong nội bộ với tên “Apollo”, Cisco đã vô tình mở đường cho một công ty mới phát triển thành một đối thủ đáng gờm.

Công ty Palo Alto Networks dùng thuật ngữ “firewall thế hệ mới” (Next Generation Firewall – NGFW) cho sản phẩm của mình, hệ thống này cho phép các công ty các công ty kiểm soát chặt chẽ việc truy cập của người dùng vào các ứng dụng Internet.
Về cơ bản, NGFW hội tụ nhiều chức năng bảo mật như firewall, hệ thống phòng chống xâm nhập (Intrusion Prevention Systems – IPS) và an toàn các cổng web trên một nền tảng đơn, theo Lazard Capital Markets.
Palo Alto Networks tăng trưởng theo tỷ lệ trực tiếp với các trang mạng xã hội như Facebook, các công cụ trên web như Gmail của Google Inc, và sử dụng Skype cho việc giao tiếp, liên lạc.
Với công nghệ mới này, việc giám sát và đảm bảo lượng truy cập từ các nền mạng xã hội trở nên dễ dàng hơn so với các hệ thống tường lửa truyền thống được cung cấp bởi Cisco, Check Point Software Technologies và Juniper Networks.
 BỎ LỠ CƠ HỘI
Sự không quan tâm của Cisco và Juniper trong việc phát triển các dự án an ninh mạng đã mang đến sự thành công cho Palo Alto Networks - một công ty mới phát triển biết nắm bắt cơ hội và thành công trên lĩnh vực của họ.
Cisco đã từ bỏ dự án “Apollo” – một cựu nhân viên làm việc với dự án này cho biết đây đã có thể là một đối thủ của Palo Alto với các tính năng bảo mật truyền thống khác.  Hiện nay, an ninh mạng được xem là điểm yếu lớn của Cisco – Gartner nói.
Cũng trong khoảng thời gian đó, giám đốc điều hành của Juniper đã không để ý đến đề nghị của Nir Zuk. Zuk muốn tạo nên một giải pháp mới cho firewall của Juniper nhưng đã thôi việc vào năm 2005 và thay vào đó ông thuyết phục các công ty đầu tư liên doanh Greylock Partners và Sequoia Capital cung cấp vốn để thực hiện kế hoạch của mình.
Sau đó, Zuk được tuyển dụng làm một lập trình viên trong quân đội và sau là công ty Check Point, Zuk giúp phát triển hệ thống firewall thương mại đầu tiên tại công ty.
“Check Point tập trung vào việc sửa lỗi thay vì phát triển các công nghệ mới mà tôi lại thích phát triển công nghệ mới”, Zuk, hiện nay là Giám đốc Công nghệ của Palo Alto Networks, nói trong IT World năm 2010. Do đó, Zuk rời khỏi Check Point và đồng sáng lập công ty bảo mật One Secure.
Công ty của Zuk sau được mua lại bởi NetScreen, một nhà sản xuất hệ thống firewall và sau lại được mua lại bởi Juniper. Theo Zuk, với việc giao dịch như vậy, sự đổi mới lại đi xuống.
Zuk đã sáng lập ra Palo Alto Networks sau khi thất vọng bởi thiếu sự đổi mới ở Juniper Networks.
DẪN ĐẦU THỊ TRƯỜNG
Hiện nay, Palo Alo Networks dẫn đầu thị trường hệ thống firewall mạng doanh nghiệp.“Sản phẩm mang tính cách mạng về cơ bản”, chuyên gia bảo mật John Kindervag cho biết tại Forrester Research. “Tất cả các nhà sản xuất thiết bị bảo mật lớn đều e ngại Palo Alto”.
Hệ thống tường lửa và Hệ thống mạng riêng ảo (Virtual Private Networks – VPN) là những phân khúc lớn nhất trong bảo mật doanh nghiệp, chiếm 31% tổng thị trường năm 2011 - 18.2 tỷ dollar, Lazard nói, thêm vào phân khúc NGFW giúp tăng trưởng mạnh đáng kể so với sự tăng trưởng của cả thị trường 9%.
Theo Gartner thị trường hệ thống firewall, bao gồm NGFW, mang lại 6.3 tỷ dollar trong năm ngoái, so với 5.9 tỷ dollar năm 2010 và 5.4 tỷ dollar năm 2009.
 “Palo Alto Networks đã có vị trí tốt để giành được thị phần trong thị trường an ninh mạng và cùng với mô hình kinh doanh đã giúp công ty hoạt động có hiệu quả với doanh thu tiếp tục tăng nhanh”, Morningstar phát biểu.
Trong 9 tháng trước tháng 4, báo cáo lợi nhuận thuần của công ty lần đầu tiên là 5.3 triệu dollar trên doanh thu 179.5 triệu dollar.

John T. Chambers: Cậu bé khó đọc, thành tiến sĩ và ngồi ghế CEO Cisco

John T. Chambers: Cậu bé khó đọc, thành tiến sĩ và ngồi ghế CEO Cisco
Trở thành CEO Cisco từ năm 1995 sau những năm èo uột của Cisco. Ông mạnh mẽ tin rằng thế giới mạng sẽ làm thay đổi cuộc sống và sứ mạng của Cisco là phải vươn lên dẫn đầu cho những thay đổi đó.
Trong 10 năm đầu tiên nắm quyền điều hành Cisco Systems, John T. Chambers đã nhanh chóng đưa công ty lên hàng tập đoàn công nghệ thông tin và đặt nó vào trung tâm kỹ nghệ Internet, trở thành một trong những khuôn mặt nổi bật trong nền kinh tế tri thức. Chambers tỏ rõ năng khiếu hiếm có trong nghệ thuật sáp nhập hàng loạt công ty để tạo nên một tập đoàn vững mạnh, thu dụng các chuyên gia có năng lực để đóng góp cho ngành công nghiệp nặng chất sáng tạo, và khôn khéo đưa tập đoàn thoát khỏi các cơn suy thoái kinh tế toàn cầu.

Chambers trở thành Giám đốc điều hành (CEO) Cisco từ năm 1995, chỉ năm năm sau khi gia nhập công ty. Đây là cả một nghị lực phi thường nếu xét đến hoàn cảnh khiếm khuyết của bản thân ông và cả sự chào đời èo uột của Cisco trong các năm 1980. Ông mạnh mẽ tin rằng thế giới mạng sẽ làm thay đổi phương cách chúng ta làm việc, sinh sống, vui chơi, học tập, và sứ mạng của Cisco là phải vươn lên dẫn đầu cho những thay đổi đó.
 
John T. Chambers, Giám đốc điều hành Cisco Systems, Inc.
 

Từ câu chuyện ra đời của Cisco

Năm 1984, Bill Yeager làm việc tại khoa Y trường Đại học Stanford muốn có một thiết bị mà ông gọi là “người chỉ đường” (router) gắn vào máy tính để có thể liên lạc đến từng bác sĩ hay bệnh nhân. Ngay lập tức người đứng đầu khoa máy tính là Leonard Bosack vào cuộc, cùng với vợ là Sandra Lerner đang nghiên cứu luận án thạc sĩ tại đó chế tạo nên một router – tức bộ định tuyến – đầu tiên giúp cho các luồng thông tin trên mạng Internet không tuôn chảy tràn lan mà qua lại trong các kênh nhất định nối giữa những nơi có nhu cầu. S

au những thử nghiệm thành công giữa các ban phòng đại học, Bosack và Lerner đã tính đến chuyện đem bán phát minh sáng chế. Nhưng lúc bấy giờ không ai quan tâm và họ đành phải mở công ty cho riêng mình đặt tên là Cisco Systems, Inc. trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tiền bạc phải nhờ đến sự tài trợ của trường đại học và sự cộng tác của các bạn bè đồng nghiệp.


Bên trong một phòng họp Teleconference của Cisco.

Năm 1986, bộ định tuyến đầu tiên dành để chuyển đổi TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet Protocol) được đưa ra thị trường. Với chỉ tám nhân sự làm việc, doanh số trong tháng đầu đạt đến 250.000 đô la Mỹ và kết thúc năm 1987 giá trị bán hàng của Cisco lên đến 1,5 triệu đô la. 

Nhưng càng nhận nhiều đơn đặt hàng, công ty càng trở nên thiếu vốn và đến năm 1988 hai người đã phải tìm đến quỹ đầu tư mạo hiểm Sequoia Capital của Donald T. Valentine. Với 2,5 triệu đô la bỏ vào, Valentine nắm quyền điều khiển Cisco Systems và đứng ra thuê John Morgridge, một chuyên gia máy tính đang làm Giám đốc tác vụ (COO) tại hãng sản xuất máy tính xách tay GRiD Systems Corp., về làm Giám đốc điều hành (CEO). Morgridge bắt tay ngay vào việc lựa chọn nhân sự và tổ chức bộ máy doanh nghiệp để đón đầu trào lưu khai thác Internet từ đầu các năm 1990.

Năm 1990, Cisco đạt doanh thu 68,8 triệu đô la, mang về 13,9 triệu đô la lợi nhuận sau khi đem bán cổ phần ra công chúng kể từ ngày 16-2-1990. Sau những tháng ngày đeo đuổi mệt mỏi, hai nhà đồng sáng lập Leonard Bosack và Sandra Lerner đem bán hết cổ phần của mình được 170 triệu đô la để sử dụng cho các hoạt động từ thiện và quay về nghiên cứu trong môi trường đại học. 

Cùng lúc này, tốc độ tăng trưởng của Internet trên toàn cầu lên đến mức kinh khủng, các công ty lớn nhỏ thi nhau lắp đặt hệ thống mạng nội bộ LAN (local area networks). Doanh số của Cisco vì vậy tăng đến chóng mặt lên 183,2 triệu đô la vào năm 1991 rồi 339,6 triệu đô la trong năm 1992. Lợi nhuận doanh nghiệp cũng tăng theo, lần lượt đạt 43,2 triệu đô la và 84,4 triệu đô la. Từ năm 1993, Morgridge đã khôn khéo mua lại một loạt công ty vừa để bổ sung và đa dạng hóa các gói sản phẩm vừa để loại bỏ các đối thủ. Kết quả là doanh thu của Cisco Systems bắt đầu vượt quá 1 tỉ đô la kể từ 1994.

Đến chuyện đời Chambers

Chứng khó đọc ngôn ngữ (dyslexia) không được xem là mối tai họa trong xã hội phương Tây. Trên thực tế, nhiều thiên tài trong các lĩnh vực nghệ thuật cũng mắc phải hội chứng này. Hội chứng dyslexia bắt đầu lộ rõ từ năm lên chín làm cho cậu bé Chambers hết sức khó khăn trong việc đọc và nói. Việc học trở nên vất vả và cả cha lẫn mẹ đều dành cho cậu con trai nhiều thời gian quý nhất. 

Thực ra John đã rất chăm chỉ vì biết rõ căn bệnh của mình. Lorene Anderson-Walters, người chuyên dạy đọc cho John, đã rất ấn tượng với tính lạc quan yêu đời của cậu. Sau này khi Chambers chọn cho mình con đường kinh doanh thì người ta mới nhận ra năng khiếu thiên bẩm đã ẩn chứa đâu đó trong cậu.

Chambers đã nhận cùng một lúc hai bằng cử nhân kinh doanh của trường Đại học West Virginia năm 1971 lúc 22 tuổi, rồi bằng tiến sĩ luật tại trường College of Law năm 1974 và bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh năm 1975 tại Đại học Indiana.

Năm 1976, John tìm được một chân bán hàng cho tập đoàn Big Blue (IBM) và kịp chen chân vào ban giám đốc bộ phận myCFO trước khi đầu quân cho Wang Laboratories trong năm 1982. Ông chủ An Wang đã để lại trong John nhiều kỷ niệm đẹp, và khi biết mình không thể qua khỏi căn bệnh ung thư đã đề nghị Chambers đảm nhận chức Phó chủ tịch. Nhưng khi An Wang qua đời, người con trưởng kế vị theo tục người Hoa đã có những quyết định sai lầm đưa công ty đến bờ phá sản. Chambers đau lòng khi phải sa thải một lúc 5.000 nhân viên ngay trước kỳ lễ Giáng sinh và rồi chính ông viết đơn từ chức.

Khó khăn vẫn tiếp tục đeo đuổi Chambers sau đó, trong 11 lá đơn tìm việc gửi đi, Chambers chỉ nhận được một thư trả lời miễn cưỡng từ Cisco. Nhưng có vẻ như số phận đã sắp đặt khi chính con người được đón nhận miễn cưỡng đó đã có khả năng biến một Cisco vốn cũng được thành lập một cách miễn cưỡng trở thành tập đoàn công nghiệp nổi tiếng.

Vào thời điểm đó, một phó chủ tịch bị mang tiếng đã để công ty từ chỗ có lợi nhuận 2 tỉ đô la mỗi năm xuống đến mức thua lỗ hiển nhiên không được sự chú ý của nhà tuyển dụng, ngoại trừ CEO của Cisco là Morgridge – một người được đánh giá là sành sỏi trong việc lựa chọn nhân tài. Ngay trong buổi hội kiến đầu tiên vào mùa thu năm 1990, Morgridge đã chủ động đề nghị trao chức Phó chủ tịch bộ phận tác vụ bán hàng toàn cầu cho Chambers. Chính sự đồng cảm và khả năng dùng người của vị CEO này đã đem họ đến gần nhau và chung vai sát cánh trong mục tiêu đặt Cisco vào trung tâm kỹ nghệ Internet qua một loạt thương vụ sáp nhập công ty và đa dạng hóa sản phẩm.

Và những mục tiêu mới của Cisco

Trong sự chuyển động không ngừng của thế giới công nghệ, thật khó để lập được một danh sách đầy đủ các trang thiết bị sử dụng cho việc điều tiết và vận hành mạng Internet bởi nó sẽ luôn được bổ sung và cập nhật. Nhưng kể từ năm 2004, Cisco đã là nhà cung cấp lớn nhất và góp phần nhiều nhất cho việc cải tiến tiện nghi cũng như hiệu quả của hệ thống mạng. Thành quả này có được là nhờ vào sáng kiến của Morgridge sáp nhập các nhà sản xuất trang bị khác nhau và các nhà vận hành hệ thống vào tập đoàn, và nhờ vào khả năng lượng giá cũng như tài thương thảo khôn khéo của Chambers.

Đợt sáp nhập đầu tiên được thực hiện trong năm 1993 dẫn đến việc doanh thu tăng vọt lên hơn 1 tỉ đô la kể từ năm 1994. Con số doanh nghiệp được sáp nhập trong thời gian 1995-1996 là 11 và 1997-1998 là 15, đưa giá trị vốn hóa của Cisco vào tháng 7-1998 lên đến 100 tỉ đô la. Lợi nhuận của năm 1999 lên mức 12,15 tỉ đô la, cao gấp sáu lần so với năm 1995. Con số doanh nghiệp đồng ý sáp nhập trong năm 1999 là 17 nghiêng về hệ thống cáp quang học, và năm sau con số này lên trên 25. Bộ máy Cisco vận hành suôn sẻ song song với luồng chảy Internet trơn tru, Morgridge tuyên bố từ chức để sau này nhận chiếc ghế Chủ tịch và tiến cử John T. Chambers vào vị trí CEO kể từ năm 1995.

Trong thời điểm châu Âu đóng cửa bầu trời do ảnh hưởng của tro bụi núi lửa ở Iceland vào tháng 4-2010, dịch vụ hội họp trực tuyến (telepresence hay teleconference) đã phát huy tính tiện ích và hiệu quả của nó. Telepresence đã trở thành một dịch vụ mới của Cisco, được khai trương kể từ lúc Chambers đảm nhận thêm chức Chủ tịch thay thế Morgridge trong năm 2006. 

Trước đó hai năm, Cisco đã chuẩn bị bằng việc mua lại Latitude Communications chuyên ngành lắp đặt các hệ thống hội thảo. Giới quan sát nói rằng cứ sau một đợt sáp nhập là một lần Cisco lớn lên. Cisco ngày nay tiếp tục chiếm vị trí hàng đầu trong việc cung cấp các trang thiết bị vận hành các cấp độ mạng từ Internet đến Intranet và các máy tính cá nhân, đồng thời đảm nhận việc cung cấp phương tiện và dịch vụ truyền tải thông tin cả vô tuyến (wireless) lẫn hữu tuyến bằng đường cáp quang xuyên qua đại dương.

Cisco: Kinh nghiệm tích hợp chuỗi cung ứng và quản trị nguồn lực doanh nghiệp

Tích hợp chuỗi cung ứng và quản trị nguồn lực doanh nghiệp

            Trên thế giới hiện nay đang có rất nhiều tập đoàn lớn triển khai và sử dụng trọn gói bộ giải pháp ERP cho hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh trên hai lĩnh vực: Sản xuất chế tạo và Kinh doanh dịch vụ. Thực tế đã chứng minh được rằng, sự phối kết hợp giữa ERP và SCM đem lại cho các công ty năng lực cạnh tranh cao hơn, đồng thời thể hiện rằng đây là lĩnh vực có nhiều tiềm năng phát triển và đầu tư. Theo các cuộc thăm dò do hãng nghiên cứu thị trường Meta Group tiến hành với sự tham gia của 63 công ty, chi phí trung bình cho một dự án ERP (bao gồm phần mềm, chi phí nhân công, tư vấn và phần cứng) sẽ vào khoảng 15 triệu USD. Mặc dù các dự án ERP phức tạp và có giá trị lớn, nhưng nếu được triển khai phù hợp và khoa học, chúng sẽ đem lại những lợi ích không nhỏ. Cụ thể, nếu được triển khai toàn bộ, một hệ thống ERP có thể giúp công ty tiết kiệm trung bình hàng năm khoảng 1,6 triệu USD. Đối với các nhà quản trị, ERP là công cụ đắc lực để quản lý tập trung toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. ERP còn giúp doanh nghiệp đánh giá khu vực tập trung nhiều khách hàng, đánh giá những loại hình dịch vụ mà khách hàng ưa thích sử dụng… Bên cạnh đó, ERP còn mang lại nhiều lợi ích khác với các tính năng như: phát triển khả năng mua bán, đặt hàng hay đăng ký dịch vụ trực tuyến, điều phối toàn bộ giá cả cho các dự án, theo dõi, quản lý và sử dụng tài sản, xác định quyền hạn và trách nhiệm của từng cá nhân tham gia hệ thống....
            Bài tập tình huống
            4.7.1. Safeway phối hợp thiết kế chuỗi cửa hàng bằng cách liên kết chuỗi cung ứng trong nội bộ doanh nghiệp
            Vấn đề
            Safeway Plc, một nhà bán lẻ lớn tại UK (công ty con của Morrison Supermakets), mỗi năm xây dựng thêm khoảng 10 cửa hàng và đổi mới khoảng 100 cửa hàng khác. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt với những siêu thị khác, công ty cần quản lý việc xây dựng cửa hàng mới hợp lý để đáp ứng thời gian và ngân sách. Công việc này thực sự không đơn giản khi hàng trăm nhân viên phải phối hợp với hàng trăm nhà cung cấp trong quá trình thiết kế, xây dựng và quản lý các trang thiết bị.
            Trước đây, việc giao dịch được thực hiện qua các phương tiện truyền thống và thư điện tử, quá trình này chậm và không hiệu quả vì các cửa hàng phân bố rộng khắp nước Anh, Scotland, Wales và Bắc Ireland. Bên cạnh đó, Safeway còn phải xây dựng các công trình công cộng khác như trường học, cầu, đường miễn phí cho các địa phương để đổi lấy đất xây cửa hàng. Các loại công trình khác nhau làm tăng tính phức tạp của việc quản lý các công trình.Giải pháp
            Sử dụng giải pháp quản lý dự án trực tuyến Buzzsaw (autodesk(vietnam12h.com)) công ty có thể lưu trữ các tài liệu dự án tại một điểm an toàn để mọi người liên quan có thể truy cập. Cổng thông tin này cho phép các phòng ban bên trong công ty và các đối tác bên ngoài (nhà xây dựng, tư vấn, kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng…) có thể truy cập.
            Người sử dụng có thể xem các bản vẽ, thay đổi và trao đổi với những người liên quan. Buzzsaw cũng tự động kiểm tra và thông báo những thay đổi được thực hiện.
            Kết quả
            Việc giao dịch đã giảm từ 2 đến 3 tuần xuống còn 5 đến 10 phút. Hơn nữa, do quá trình thiết kế nhanh, các thiết kế đều sử dụng những thành tựu mới nhất. Các siêu thị đều có thể sử dụng những thiết kế mới nhất. Buzzsaw cho phép các cửa hàng của Safeway dẫn đầu trên thị trường với các thiết kế mới như Internet Café…
            Một lợi ích của hệ thống là giảm thời gian đi lại của các kỹ sư, kiến trúc sư. Chi phí đi lại giảm 10-15%. Chi phí in ấn giảm 30%. Thời gian thực hiện dự án cung giảm từ 6 tháng xuống 3 tháng. Thay đổi thiết kế giảm từ 1-2 ngày xuống còn 5-10 phút.
            Việc phối kết hợp cho phép người dùng nắm bắt các thông tin quan trọng đồng thời cho phép xác định thời điểm ra quyết định hợp lý nhất.
            4.7.2. Chuỗi cung ứng của Cisco: Thành công & thất bại
            Đối với tất cả giới kinh doanh và sản xuất, thành công của Cisco khiến mọi người kinh ngạc vì thực tế Cisco System không sản xuất các thiết bị phần cứng của họ, đồng thời cũng không viết các phần mềm của mình. Tất cả các hoạt động này đều được thuê ngoài (outsource). Về cơ bản, Cisco chỉ thiết kế sản phẩm, nghiên cứu và phát triển; đặt hàng các nhà sản xuất theo đúng thiết kế đã hoàn thành; sau đó tập trung vào marketing và bán hàng. Khi khách hàng quyết định mua hàng của Cisco, hợp đồng mua bán được thành lập, Cisco sẽ chuyển hợp đồng trực tiếp đến nhà cung cấp và nhà cung cấp sẽ trực tiếp giao hàng đến cho khách hàng. Những nhà cung cấp của Cisco và nhà cung cấp của những nhà cung cấp này thậm chí cũng làm việc với đối thủ của Cisco. Đồng thời, khách hàng của Cisco cũng có thể mua hàng từ Cisco hoặc từ các nhà cung cấp của họ.
            Hệ thống trên xem ra hoạt động rất tốt và lợi nhuận của Cisco tăng nhanh và giá cổ phiếu của Cisco cũng vậy. Tuy nhiên, tháng 5/2001, Cisco tuyên bố khoản nợ 2.2 tỷ đô la Mỹ trị giá hàng lưu kho, nguyên nhân chính được các nhà phân tích chỉ ra là do thất bại trong tích hợp hệ thống cung cấp.Vấn đề có nguồn gốc từ khách hàng của Cisco, ước tính nhu cầu cao và khả năng thiếu hụt lớn nên đặt hàng tại cả Cisco và đối thủ của Cisco với ý định mua từ nhà cung cấp nào nhanh hơn và rẻ hơn, khi đó sẽ hủy đơn hàng từ các nhà cung cấp còn lại. Không biết được tình hình về các đơn đặt hàng trùng lặp này, hệ thống cung cấp của Cisco đưa ra dự báo về nhu cầu rất lớn. Các nhà cung cấp của Cisco cũng tránh thiếu hụt linh kiện bằng cách đặt hàng với số lượng lớn từ các nhà cung cấp của họ.  Các nhà sản xuất linh kiện cũng không biết được vấn đề đặt hàng trùng lặp nên tiến hành sản xuất. Khi thực hiện đơn hàng, thực tế Cisco nắm giữ số lượng thiết bị nhiều gấp ba lần lượng hàng có nhu cầu thực tế. Do đặc thù công nghệ lạc hậu nhanh, những thiết bị này nhanh chóng trở thành món hàng vô giá trị.
            Bài học thất bại của Cisco cho thấy tầm quan trọng của việc ước tính chính xác nhu cầu thị trường. Nếu những ước tính ban đầu không chính xác, các tính toán sau này sẽ tiếp tục đưa ra kết quả sai lầm.

            Cisco sửa sai bằng việc cải tiến hệ thống cung cấp thông qua cổng eHub, cổng này cung cấp các thông tin minh bạch đến tất cả các bên tham gia vào chuỗi cung cấp Cổng này do Viacore.net quản lý với nhiều tiềm năng cải tiến dự đoán nhu cầu thị trường.

Cisco và HP hợp tác chế tạo bộ chuyển mạch phiến

Cisco và HP hợp tác chế tạo bộ chuyển mạch phiến

Hai đối thủ đã làm việc với nhau để phát triển bộ chuyển mạch (switch) cho các hệ thống máy chủ phiến (blade) của HP, giải quyết nhu cầu của những khách hàng chung.

Thiết bị Cisco Fabric Extender cho HP BladeSystem (còn được gọi là Cisco Nexus B22 Fabric Extender cho HP) cung cấp sự tích hợp chặt hơn cho những khách hàng đang đầu tư vào các máy chủ HP BladeSystem và bộ chuyển mạch Cisco Nexus, bảo toàn các khoản đầu tư trong công nghệ trung tâm dữ liệu hiện có, hai công ty cho biết. Cisco Fabric Extender là các thiết bị được thiết kế để mở rộng khả năng của Nexus 5000/7000.
Thiết bị Cisco Fabric Extender cho HP BladeSystem.
Đó là một sự hợp tác kỳ lạ vì Cisco và HP là những đối thủ thực sự kể từ khi Cisco bước vào thị trường máy chủ trung tâm dữ liệu và HP mua lại 3Com - nhà sản xuất tiên phong trong lĩnh vực mạng. Nhưng HP chỉ ra rằng, có rất nhiều khách hàng chung đang sử dụng các máy chủ HP và thiết bị chuyển mạch Cisco. Phía Cisco cũng xác nhận điều đó.

Giờ đây, HP đã có bán thiết bị Cisco Fabric Extender cho HP BladeSystem với giá khởi điểm 9.799 USD.

Theo pcworld

Cisco tìm cách tăng doanh thu cho đối tác bán hàng


Tập đoàn Cisco nhà sản xuất các thiết bị hàng đầu về mạng - sẽ đưa ra một số sáng kiến thúc đẩy tăng lợi nhuận cho các công ty chuyên bán các sản phẩm của hãng, hy vọng những sáng kiến này sẽ tăng được số lượng hàng hoá bán ra trong điều kiện khó khăn như hiện nay.
Giám đốc mạng lưới phân phối toàn cầu của hãng Cisco, ngài Paul Mountford cho biết: ''Hiện nay mục tiêu hàng đầu của tôi là cố gắng tăng doanh thu của các đối tác. Đó là mục tiêu hàng đầu trong ngành công nghiệp này và đó cũng không phải chỉ là lợi nhuận của hãng Cisco mà thôi''.

Sự phát triển của hãng Cisco phụ thuộc vào sự cộng tác chặt chẽ với các công ty bán sản phẩm của hãng để hợp tác với các khách hàng thương mại. Sự quan tâm của hãng đối với các công ty này là rất quan trọng trong thời điểm các công ty hạn chế sử dụng công nghệ thông tin và các đối thủ cạnh tranh cũng cố gắng tranh thủ các đối tác của Cisco.

Trong những chương trình phát triển mới trước hội nghị các đối tác thường niên, hãng Cisco tuyên bố sẽ hạn chế hơn nữa các khoản phí quản lý của mình đối với các công ty chuyên bán các sản phẩm của hãng, cũng như sẽ hết sức cố gắng thâm nhập thị trường vừa và nhỏ và đưa ra những dự án tài chính mới.

Cisco tuyên bố các chương trình phát triển mới sẽ không ảnh hưởng đến doanh thu của hãng. Nhưng ông Mountford tuyên bố những thay đổi này có thể sẽ tăng lợi nhuận của các công ty bán sản phẩm đến 50% trong vòng từ 1 đến 2 năm. Hội nghị các đối tác thường niên của hãng sẽ được tiến hành vào ngày thứ 3 tuần tới tại Las Vegas để chứng tỏ quan điểm lạc quan của ông.

Sau khi cơn sốt viễn thông và dot-com bùng nổ vào năm 2000, doanh thu của các công ty chuyên bán các sản phẩm của hãng giảm, thậm chí số lượng các đối tác của hãng lại tăng. Kể từ đó hãng Cisco đã bắt đầu giảm số lượng đối tác để đẩy mạnh mạng lưới của mình.
Trong một vài năm gần đây, Cisco đã chuyển từ việc tự bán các sản phẩm của mình sang sử dụng các đối tác bán lại. Điều này giữ cho giá thành của hãng thấp hơn bằng cách làm ăn với các công ty khác nhỏ hơn. Nó còn cho phép đội ngũ nhân viên bán hàng của hãng có điều kiện tập trung vào việc chào hàng các sản phẩm công nghệ.

4 năm trước đây, các công ty này đã bán được 10% các sản phẩm của hãng Cisco cho các doanh nghiệp và các thị trường thương mại, số lượng sản phẩm còn lại là bán trực tiếp. Hiện nay các công ty bán lại này chiếm khoảng 92% tổng số lượng hàng hoá bán ra, nhưng Cisco vẫn bán trực tiếp các sản phẩm của mình cho các công ty điện thoại.

Kể từ tháng 4 năm 2001, Cisco đã giảm bớt số lượng các đại lý từ 6.600 xuống còn 3.200, bao gồm các đại lý không được cấp giấy phép và không được hãng đào tạo.

Cisco ước tính có khoảng 40.000 công ty chuyên bán các sản phẩm của hãng. Nhưng các đại lý chính thức bán hơn 90% số lượng các sản phẩm bán ra. Cisco cũng bán các sản phẩm của mình cho những hãng viễn thông như hãng AT&T, Sprint và SBC Communications Inc.

B.T. - Theo Reuters

Samsung và Cisco hợp sức trong cuộc chiến bản quyền

Samsung và Cisco hợp sức trong cuộc chiến bản quyền

NDĐT - Trong vài tuần qua, Samsung đã ký liên minh với Google và Google với Cisco. Giờ đây, khi Samsung và Cisco thông báo một thoả thuận tương tự đã tạo nên một tam giác hoàn hảo, và vô hình chung cả ba tạo thành tam giác vững mạnh bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Trật tự cũ về nắm giữ phát minh không dây trước đây được xem như kết thúc, đồng thời chấm dứt cuộc chiến về bản quyền phát minh trong thị trường điện thoại thông minh khi nhiều hãng lớn đạt được các thoả thuận về bản quyền chéo.
Ba hãng này nói rằng thoả thuận về bản quyền chéo cho phép bảo vệ họ khỏi các cuộc kiện tụng của các đối thủ cạnh tranh như Apple hoặc trả phí sử dụng phát minh. Hơn nữa, việc cho phép quyền sử dụng phát minh giữa các hãng lớn sẽ tạo ra một pháo đài vững chắc hơn trong cuộc chiến với các luật sư.
Google và Cisco được xem là những hãng thiếu kinh nghiệm trong cuộc chiến về bản quyền di động và họ cũng không muốn đi theo cách thông thường của các hãng khác khi vào thị trường này là tiến hành đàm phán song phương với các tập đoàn đang sở hữu hàng loạt phát minh về công nghệ không dây như Qualcomm, Ericsson và Nokia. Thông thường, các đàm phán này thường không đạt kết quả và dẫn đến các vụ kiện tụng, một số trường hợp đã buộc phải nộp các khoản phạt lớn.
Thoả thuận này đảm bảo các bên không ngăn cản nhau trong tiếp cận thị trường thông qua các phát minh không phải là tiêu chuẩn (ví dụ như giao diện người dùng) để tập trung vào thị trường di động quan trọng.
Trước sức ép của Apple,Google đã buộc phải mua lại mảng di động của Motorola để có được các phát minh về di động của hãng này nhằm tự vệ và bảo vệ hệ sinh thái Android. Rõ ràng Google đã tránh được các cuộc đối đầu trực tiếp về pháp lý, thay vào đó, hãng này đã luôn phát triển và gương cao ngọn cờ “đổi mới thay vì tranh tụng”. Giờ đây, những thoả thuận về sở hữu chéo về sáng chế đã tiếp lửa cho những cố gắng này của hãng.
Theo tin mới nhất, Samsung cũng đã đồng ý khoảng thời gian của thoả thuận là 10 năm với Cisco, tương tự như các thoả thuận đã ký với Nokia, Google và Ericsson. Thoả thuận mới này sẽ bao gồm những phát minh hiện nay và sau này trong thời hạn 10 năm.
Dan Lang, Phó chủ tịch quyền sở hữu trí tuệ của Cisco cho rằng: "ngày nay, sáng tạo đang bị đàn áp bởi môi trường quá nhiều kiện tụng. Bằng việc cấp phép chép danh mục các phát minh của chúng tôi, Cisco và Samsung đã đi những bước quan trọng để đảo ngược xu hướng, thúc đẩy đổi mới và tự do trong hoạt động".
 
Samsung đã ký liên minh với Google và Google với Cisco. Giờ đây, khi Samsung và Cisco thông báo một thoả thuận tương tự đã tạo nên một tam giác hoàn hảo, và vô hình chung cả ba tạo thành tam giác vững mạnh bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Trật tự cũ về nắm giữ phát minh không dây trước đây được xem như kết thúc, đồng thời chấm dứt cuộc chiến về bản quyền phát minh trong thị trường điện thoại thông minh khi nhiều hãng lớn đạt được các thoả thuận về bản quyền chéo.
Ba hãng này nói rằng thoả thuận về bản quyền chéo cho phép bảo vệ họ khỏi các cuộc kiện tụng của các đối thủ cạnh tranh như Apple hoặc trả phí sử dụng phát minh. Hơn nữa, việc cho phép quyền sử dụng phát minh giữa các hãng lớn sẽ tạo ra một pháo đài vững chắc hơn trong cuộc chiến với các luật sư.
Google và Cisco được xem là những hãng thiếu kinh nghiệm trong cuộc chiến về bản quyền di động và họ cũng không muốn đi theo cách thông thường của các hãng khác khi vào thị trường này là tiến hành đàm phán song phương với các tập đoàn đang sở hữu hàng loạt phát minh về công nghệ không dây như Qualcomm, Ericsson và Nokia. Thông thường, các đàm phán này thường không đạt kết quả và dẫn đến các vụ kiện tụng, một số trường hợp đã buộc phải nộp các khoản phạt lớn.
Thoả thuận này đảm bảo các bên không ngăn cản nhau trong tiếp cận thị trường thông qua các phát minh không phải là tiêu chuẩn (ví dụ như giao diện người dùng) để tập trung vào thị trường di động quan trọng.
Trước sức ép của Apple,Google đã buộc phải mua lại mảng di động của Motorola để có được các phát minh về di động của hãng này nhằm tự vệ và bảo vệ hệ sinh thái Android. Rõ ràng Google đã tránh được các cuộc đối đầu trực tiếp về pháp lý, thay vào đó, hãng này đã luôn phát triển và gương cao ngọn cờ “đổi mới thay vì tranh tụng”. Giờ đây, những thoả thuận về sở hữu chéo về sáng chế đã tiếp lửa cho những cố gắng này của hãng.
Theo tin mới nhất, Samsung cũng đã đồng ý khoảng thời gian của thoả thuận là 10 năm với Cisco, tương tự như các thoả thuận đã ký với Nokia, Google và Ericsson. Thoả thuận mới này sẽ bao gồm những phát minh hiện nay và sau này trong thời hạn 10 năm.
Dan Lang, Phó chủ tịch quyền sở hữu trí tuệ của Cisco cho rằng: "ngày nay, sáng tạo đang bị đàn áp bởi môi trường quá nhiều kiện tụng. Bằng việc cấp phép chép danh mục các phát minh của chúng tôi, Cisco và Samsung đã đi những bước quan trọng để đảo ngược xu hướng, thúc đẩy đổi mới và tự do trong hoạt động".

Cisco : Ngành công nghệ đang ở thời kì tàn sát lẫn nhau

Ngành công nghiệp CNTT đang là một sân chơi đầy khắc nghiệt


Mới đây, trong một cuộc hội thảo về vấn đề phát triển toàn cầu, CEO John Chambers của Cisco đã cho biết rằng với tốc độ phát triển nhanh chóng như hiện nay, ngành công nghiệp CNTT đang là một sân chơi đầy khắc nghiệt và trong 5 năm tới sẽ chỉ còn 2 hoặc 3 cái tên nổi tiếng ngày nay được nhắc đến.

CNTT đang trở thành một sân chơi đầy khắc nghiệt.
John Chambers cho biết: " Trong số các công ty công nghệ đang tham dự buổi hội thảo này , bất kể bạn đang ở đâu trong thế giới này. Sẽ có khoảng 87% công ty sẽ gặp vấn đề thâm hụt tài chính lớn trong 15 năm tới vì bị mất thị phần kinh doanh. Và hơn chục năm tiếp theo sẽ chỉ có dưới 10% tồn tại được. Nhưng cuối cùng chỉ có 1/3 trong số đó là tồn tại được trong 25 năm qua. "
Ông còn dẫn số liệu cho thấy, chỉ 24% trong số các công ty trong danh sách Fortune 500 25 năm trước (danh sách các công ty giàu có nhất thế giới) còn tồn tại trong bảng xếp hạng năm nay.
John Chambers ví dụ top 5 công ty công nghệ hàng đầu Cisco, IBM , HP, Microsoft và Oracle cũng không thoát khỏi "cối xay thịt" này : Các bạn sẽ nhận ra là hơn 2 năm qua HP và IBM đã không có doanh thu và hai hãng rất có khả năng sẽ bị “chệch đường” nếu như không có hướng đi mới."

Để chứng minh cho những gì mình nói, vị CEO của Cisco đã cho trình chiếu những số liệu và phân tích của mình.Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy đúng như những gì CEO này đã nói. Các đối thủ cạnh tranh ban đầu của Cisco đã dần biến mất Juniper , CheckPoint , Ruckus , Palo Alto Networks, Avaya, Aruba, F5 , ShoreTel , Huawei, Arista , Fortnet, Polycom và đến năm 2018 thì toàn bộ các đối thủ cạnh tranh sẽ bị xóa sổ.
Những gì mà Chambers nói không phải không có lý khi mà đến thời điểm này, đã có một vài công ty công nghệ có dấu hiệu phá sản. Vẫn có một số công ty sẽ thoát khỏi cuộc tàn sát này, như VMware . Một công ty công nghệ được start up vào đầu năm 2012 và đã nhanh chóng trở thành một trong những đối thủ cạnh tranh chính với Cisco. Hướng đi chủ yếu của Vmware là tập trung vào SDN (Software Defined Networking).
SDN hay mạng điều khiển bằng phần mềm được dựa trên cơ chế tách bạch việc kiểm soát một luồng mạng với luồng dữ liệu. SDN tách định tuyến và chuyển các luồng dữ liệu riêng rẽ và chuyển kiểm soát luồng sang thành phần mạng riêng có tên gọi là thiết bị kiểm soát luồng (Flow Controller). Điều này cho phép luồng các gói dữ liệu đi qua mạng được kiểm soát theo lập trình. SDN đang được đánh giá là tương lai của ngành công nghệ mạng.
Rất nhiều công ty đã bị loại khỏi cuộc chơi
VMware đang cố gắng để thay đổi mãi mãi ngành công nghiệp mạng bằng cách bán các gói SDN vừa và nhỏ. Được biết, thị phần của Cisco đang khá nguy cấp khi mà đa số khách hàng thân thiết đều quay sang sử dụng các sản phẩm của Vmware.
Tuần trước, khi nói chuyện với các nhà phân tích phố Wall ở buổi họp cổ đông hàng quý , Chambers có đôi chút bác bỏ những mối đe dọa từ VMware. Cisco khẳng định sẽ nhanh chóng đè bẹp hãng .Tuy nhiên, đó là chuyện của tương lai. Còn bây giờ thì thực tế Cisco đang bị mất thị phần bởi Vmware. Và Cisco đã phải tiến hành hợp tác với Vmware để sống sót.

Source: baomoi.com